Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ tháng 8 năm 2019

15/09/2019

Báo cáo từ Cục Thống kê thành phố Cần Thơ, tình hình kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ tháng 8 năm 2019 như sau:

Giám đốc Sở Y tế Cần Thơ ký cam kết với 03 đơn vị: Bệnh viện Đa khoa thành phố, Trung tâm Y tế Ninh Kiều và Bệnh viện Đa khoa quận Thốt Nốt về thực hiện giảm thiểu chất thải nhựa. Ảnh: Sở Y tế TPCT.

I. CÔNG NGHIỆP

Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp ước tháng 8 tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 10,92% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 11,09%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,64%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý xử lý rác thải tăng 6,57% so với cùng kỳ.

Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp 8 tháng tăng 7,15% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 7,4%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,18%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý xử lý rác thải tăng 4,83%. Trong đó, có một số sản phẩm tăng như: Phi lê đông lạnh tăng 20,39%; tôm đông lạnh tăng 16,74%; thức ăn cho thủy sản tăng 6,98%; bia lon tăng 12,59%; bao bì dệt tăng 26,85%; quần áo tăng 10,17%; thùng hộp bằng giấy tăng 12,75%; sản phẩm in ấn tăng 18,43%; phân bón tăng 18,08%; dược phẩm tăng 27,57%; bao bì nhựa tăng 17,24%; giường tủ bàn ghế 36,64%. Các sản phẩm trên tăng do các doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ máy móc hiện đại vào quy trình sản xuất nên tạo ra các sản phẩm mẫu mã đẹp, đa dạng, phong phú về quy cách giúp cho khách hàng có nhiều lựa chọn. Nhiều doanh nghiệp hiện nay luôn quan tâm đến giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm, phương thức đưa ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ phù hợp với mức thu nhập, nhu cầu của người tiêu dùng. Với công nghệ mạng điện tử doanh nghiệp đã tận dụng tối đa phương thức này để quảng bá sản phẩm ra nước ngoài, tăng cường khai thác thị trương tiêu thụ nội địa. Ngoài ra, công tác nghiên cứu thị trường, chọn lựa đối tác và lập phương án kinh doanh luôn được quan tâm đúng mức từ đó tăng cường đẩy mạnh sản xuất, góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố.

Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn như việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất kinh doanh, thủ tục đầu tư, máy móc thiết bị công nghệ chưa thật sự tốt… đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các cơ chế chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp chưa được tận dụng tối đa, nhiều doanh nghiệp chưa đủ năng lực để được quyền hưởng chế độ ưu đãi của nhà nước. Khó khăn nhất doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ là thiếu vốn sản xuất kinh doanh vì khả năng tài chính thấp, thêm vào đó các doanh nghiệp này khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng vì không có tài sản thế chấp, thời gian cho vay ngắn nên khó xoay vòng vốn để trả lãi ngân hàng.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 8 tăng nhẹ 1,28% so với tháng trước và tăng 3,96% so cùng kỳ. Tính chung 8 tháng chỉ số tiêu thụ tăng 1,85% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng như: Chế biến thuỷ sản tăng 19,07%; thức ăn gia súc và thuỷ sản tăng 6,76%; sản xuất đồ uống tăng 7,26%; sản phẩm dệt tăng 24,45%; sản xuất trang phục tăng 8,86%;  sản phẩm từ giấy tăng 6,09%; in ấn tăng 10,69%; sản xuất hoá chất tăng 9,59%; sản xuất thuốc hóa dược và dược liệu tăng 27,95%; sản xuất sản phẩm kim loại tăng 10,13%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 16,78; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,23%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 6,61%. Một số sản phẩm có chỉ số tiêu thụ tăng cao do doanh nghiệp đã xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, đẩy mạnh chiến lược người việt dùng hàng việt, tạo đà tiêu thụ nội địa rộng khắp, mặt khác tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề để tạo ra các sản phẩm ưu việt, tạo sự thu hút và đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu cho người tiêu dùng.

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 1/8/2019 là 83,06% so với tháng cùng kỳ.

Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2019 tăng 0,51% so với tháng trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm nhẹ 0,46%, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,57% và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 0,72%. Số lao động tại các doanh nghiệp duy trì ở mức ổn định, không có biến động lớn.

II. NÔNG LÂM NGHIỆP - THUỶ SẢN

1. Nông nghiệp

1.1. Trồng trọt

Cây lúa

Lúa Hè thu 2019 đã xuống giống ước đạt 79.612 ha, đạt 105% so với kế hoạch (KH 75.800 ha), so với cùng kỳ giảm 1.142 ha. Nông nghiệp tiếp tục mở rộng thực hiện mô hình cánh đồng lớn trên địa bàn các huyện Vĩnh Thạnh, Thới Lai, Cờ Đỏ, Phong Điền và quận Thốt Nốt với khoảng 115 mô hình cánh đồng lớn với diện tích ước đạt 29.490 ha, tăng so với cùng kỳ 4.073 ha, với khoảng 21.238 hộ tham gia. Các giống lúa được gieo trồng chủ yếu trong vụ Hè thu bao gồm: OM 5451 chiếm tỷ lệ 61% so với diện tích gieo trồng, OM 4218 chiếm tỷ lệ 4%, IR50404 chiếm tỷ lệ 26%, Jasmine 85 chiếm tỷ lệ 1%, các giống khác chiếm tỷ lệ 8%. Với mục tiêu nâng cao chất lượng, tăng giá trị hàng hóa nông sản để góp phần tăng thu nhập cho nông dân, ngành Nông nghiệp đã khuyến cáo sử dụng các giống lúa đặc sản chất lượng cao trong vụ Hè thu 2019 chiếm trên 74% diện tích gieo trồng.

Đến nay, đã thu hoạch dứt điểm diện tích lúa Hè thu, năng suất ước đạt 59,03 tạ/ha, so với cùng kỳ tăng 2,38%, bằng 1,37 tạ/ha. Sản lượng ước 469.961 tấn, so Hè thu 2018 tăng 4.322 tấn.

Nguyên nhân năng suất và sản lượng tăng do: (1) Ngay từ đầu vụ, các địa phương đã hoàn thiện hệ thống thủy lợi, tuân thủ nghiêm túc các khuyến cáo của ngành nông nghiệp như làm đất kỹ, vệ sinh đồng ruộng, gieo sạ đồng loạt, né rầy, đúng lịch, áp dụng “4 đúng” trong phòng trừ sâu bệnh, thâm canh tổng hợp, quản lý dịch hại theo phương pháp IPM, áp dụng “3 giảm 3 tăng,” “1 phải 5 giảm,” bón phân cân đối trong quá trình sản xuất, nhờ đó lúa phát triển tốt, diện tích lúa nhiễm sâu rầy không nhiều; (2) Nông dân có kinh nghiệm sản xuất và thường xuyên được dự báo tình hình sâu bệnh trên báo đài, từ đó nông dân xuống giống tập trung, đồng loạt, đã chủ động phòng trừ, quản lý tốt sâu bệnh trên đồng ruộng, nhờ đó lúa phát triển tốt và cho năng suất khá cao; (3) Vụ lúa Thu đông 2019, trên chân ruộng đã thu hoạch xong lúa Hè thu và màu Xuân hè, bà con nông dân tiếp tục sản xuất vụ lúa Thu đông; đến ngày 15/8/2019, toàn TP đã xuống giống ước được 64.248 ha lúa Thu đông, đạt 107,58% so với kế hoạch (KH: 59.720 ha); thấp hơn 9.813 ha so với cùng kỳ. Các giống lúa chất lượng cao được nông dân ưa chuộng tiếp tục gieo sạ như: OM 5451: 67% so với diện tích gieo trồng, OM 4218: 3%, IR 50404: 21%, Jasmine 85: 1%,... và các giống khác 8%; (4) Hiện nay, lúa Thu đông chủ yếu ở giai đoạn đòng đến chắc xanh, sinh trưởng và phát triển khá tốt. Trong tháng do ảnh hưởng mưa bão làm cho 23 ha lúa chết giống (21 ha chết dưới 30% và 2 ha chết trên 70%) nông dân tiến hành cấy dặm sớm để đảm bảo mật độ gieo trồng, tập trung tại quận Thốt Nốt và huyện Thới Lai. Tổng diện tích nhiễm dịch hại là 598 ha, giảm 322 ha so với tháng trước và thấp hơn 57 ha so với cùng thời điểm vụ Thu đông, chủ yếu diện tích nhiễm rầy nâu, bệnh đạo ôn lá, bệnh cháy bìa lá...; (5) Trong tháng giá lúa khô ổn định so với tháng trước: Cụ thể giá lúa các giống lúa OM: 5.700-5.800  đồng/kg, giá lúa IR 50404: 5.300-5.400 đồng/kg. Hiện nay, vụ lúa Thu đông chưa thu hoạch nhưng được một số thương lái đặt cọc cho nông dân từ 4.400 – 4.500đ/kg đối với lúa tròn (lúa máy cắt tại ruộng) và lúa dài dao động từ 5.000 – 5.500 đ/kg (lúa máy cắt tại ruộng), nhìn chung giá lúa Thu đông được thương lái đặt cọc như hiện nay là có dao động tăng so với vụ Đông xuân và vụ Hè thu vừa qua từ 200 – 400đ/kg. 

Cây hàng năm khác

Đến ngày 15/8/2019, toàn thành phố gieo trồng cây hàng năm khoảng 12.793 ha, cao hơn so với cùng kỳ 419 ha. Nguyên nhân: Diện tích tăng tập trung chủ yếu cây mè ở quận Ô Môn, Thốt Nốt do vụ lúa Đông xuân năm nay thời tiết không thuận lợi và có rất nhiều diện tích lúa bị cháy rầy, giá lúa xuống rất thấp nên bà con chuyển sang trồng cây mè. Đến ngày 15/8/2019, toàn TP đã thu hoạch khoảng 10.082 ha cây hằng năm khác nhanh hơn cùng kỳ 512 ha, năng suất các cây hàng năm khác ổn định. Ngành Nông nghiệp đã chỉ đạo xây dựng và mở rộng vùng rau an toàn ứng dụng KHKT vào sản xuất, góp phần giảm chi phí, tạo sản phẩm tốt và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, từ đó tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông hộ.

Trong tháng, có khoảng 54 ha nhiễm dịch hại, giảm hơn 2 ha so với cùng kỳ năm 2018. các đối tượng dịch hại xuất hiện như: bọ trĩ/bầu bí dưa 10 ha, bệnh phấn trắng/bầu bí dưa 6 ha, sâu đục trái/đậu các loại 6 ha, ... tại trung tại huyện Phong Điền và quận Cái Răng. Do ảnh hưởng mưa to nhiều ngày, tại quận Thốt Nốt có 3 nhà lưới bị rách lưới (500m2/nhà lưới), rau màu bị ảnh hưởng không đáng kể.

Cây lâu năm

Diện tích cây ăn quả gieo trồng đến tháng 8 ước khoảng 18.466 ha, chiếm 91,01% trong tổng diện tích cây lâu năm, tăng 3,11%, bằng 556 ha so cùng kỳ năm 2018 tập trung chủ yếu ở những cây xoài tăng 7,76%, đu đủ tăng 141 ha; sầu riêng tăng 13,72%; cam tăng 138 ha,…. Diện tích cây dừa gieo trồng ước là 1.824 ha, tăng 9 ha so cùng kỳ. Nguyên nhân diện tích tăng do nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ đất lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng cây ăn trái cho hiệu quả kinh tế cao hơn, chủ yếu ở quận Ô Môn, huyện Phong Điền,… Ngành Nông nghiệp tiếp tục vận động nông dân khôi phục vườn cây ăn trái tập trung, chuyên canh; Với định hướng phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị, hiện nay đã xây dựng được 12 vườn cây ăn trái kết hợp phát triển du lịch sinh thái, lợi nhuận cao gấp 1,5-2 lần so với trồng chuyên cây ăn trái.

Trong tháng, có khoảng 24 ha cây có múi nhiễm dịch hại, thấp hơn 6 ha so với cùng kỳ năm 2018, chủ yếu là rệp sáp 8 ha với tỷ lệ gây hại 15-25%, bệnh đốm bồ hóng 10 ha với tỷ lệ bệnh 15-25%, bệnh loét 6 ha với tỷ lệ bệnh 7-10%, ... tập trung tại huyện Phong Điền. Diện tích nhãn nhiễm bệnh chổi rồng khoảng 256 ha: trong đó diện tích nhiễm nặng 16 ha (tỷ lệ bệnh >40%), diện tích nhiễm trung bình 42 ha (tỷ lệ bệnh 20-40%), diện tích nhiễm nhẹ 198 ha (10-20%). Sâu đục trái trên cây nhãn gây hại 3 ha tập trung tại quận Cái Răng. 

1.2. Chăn nuôi

Trong tháng, trên địa bàn thành phố không xảy ra dịch bệnh tai xanh ở heo và lở mồm long móng trên gia súc.

Ngày 27 tháng 7 năm 2019, bệnh cúm gia cầm đã xuất hiện tại 01 hộ chăn nuôi gà thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy; tổng đàn gà mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy là 1.500 con. Sở Nông nghiệp và PTNT thực hiện công văn số 2489/UBND-KT ngày 18 tháng 8 năm 2019 của UBND thành phố về triển khai công tác phòng, chống bệnh cúm gia cầm trên địa bàn thành phố, nên đã tích cực phối hợp với địa phương xử lý dứt điểm và không phát sinh thêm ổ dịch.

Bệnh dịch tả heo Châu Phi từ ngày 23/5/2019 đến ngày 13/8/2019 bệnh xảy ra tại 1.570 hộ chăn nuôi heo thuộc 73 xã, phường của 09 quận, huyện. Tổng số heo trong ổ dịch là 49.798 con, số heo bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy là 43.209 con (Thú y tiêu hủy 42.7991 con, khối lượng là 2.478 tấn và chủ hộ tự tiêu hủy 410 con). Ngành Nông nghiệp đã thực hiện các giải pháp đồng bộ để phòng, chống dịch theo quy định.

Hiện trên địa bàn thành phố có 13 cơ sở sản xuất giống gia súc, gia cầm. Trong đó có 8 cơ sở chăn nuôi heo sản xuất con giống, với khả năng cung cấp gần 5.000 con giống/năm và 5 cơ sở chăn nuôi vịt sản xuất con giống, với khả năng cung ứng khoảng 700.000 – 750.000 con giống/năm; Cơ sở nuôi giữ heo đực giống hiện có 29 cơ sở với tổng đàn 127 con; Hàng năm sản xuất và tiêu thụ khoảng 110.000 – 115.000 liều tinh.

Hiện nay, chăn nuôi còn nhỏ lẻ, phân tán, mô hình chăn nuôi tập trung theo hướng an toàn sinh học chưa nhiều.

2. Lâm nghiệp

Với vị trí địa lý của thành phố Cần Thơ hiện nay, diện tích trồng cây lâm nghiệp tập trung không còn, bà con nông dân chỉ trồng cây phân tán ở những vùng đất nhỏ lẻ ven các tuyến lộ giao thông nông thôn... tiếp tục chăm sóc các cây lâm nghiệp trồng phân tán đã trồng, đồng thời khai thác các cây đủ tiêu chuẩn phục vụ cho nhu cầu xây dựng, làm chất đốt trong đời sống....

3. Thủy sản

Trong tháng, diện tích nuôi thuỷ sản đã thu hoạch, được tiến hành cải tạo để thả nuôi cho vụ mới; Hiện nay giá cá tra giảm sâu ở mức 19.000 – 19.500 đ/kg, (cá từ 650 – 800 g/con), với giá này người nuôi lổ 3.000 – 4.500 đồng/kg (giá thành cá tra 22.000 – 24.000 đồng/kg). Giá giảm mạnh so với các tháng trước vì người dân thả nuôi quá nhiều làm cung vượt cầu. Nhiều người cho rằng đây chỉ là diễn biến tạm thời bởi doanh nghiệp xuất khẩu cá tra đã chủ động nguồn cá nguyên liệu tự nuôi và nuôi liên kết với hộ dân, cộng với lượng hàng trong kho có sẵn, cơ bản đáp ứng hợp đồng xuất khẩu trong những tháng đầu năm, nên doanh nghiệp tạm thời hạn chế thu mua cá tra là nguyên nhân chính dẫn đến giá cá tra giảm. Với tình hình giá như trên người nuôi cá tra hiện nay rất khó khăn. Dự kiến diện tích nuôi cá tra có giảm nhưng không nhiều vì người nuôi có nhiều kinh nghiệm treo ao chờ giá.

Tình hình dịch hại trên thủy sản: Xuất hiện rải rác các bệnh gan thận mủ, phù đầu, xuất huyết trong các ao nuôi cá tra, đặc biệt các ao ương cá giống và ao mới thả giống, tỷ lệ hao hụt cá tra thả nuôi cao do khan hiếm con giống chất lượng không cao. Ngành Nông nghiệp khuyến cáo người nuôi cần chuẩn bị ao nuôi đúng quy trình kỹ thuật, chọn con giống khỏe, có nguồn gốc rõ ràng, có kiểm dịch của cơ quan thủy sản.

Tình hình khai thác thủy sản: Do vào mùa mưa, số hộ khai thác tăng, nguồn thủy sản ngoài tự nhiên sinh sản nhiều và phát triển tốt, nên sản lượng khai thác trong tháng có phần tăng hơn so với cùng kỳ năm trước.

Hiện nay, có 199 cơ sở sản xuất, kinh doanh giống thủy sản trên địa bàn TP Cần Thơ. Trong tháng đầu năm sản xuất ước được 35 triệu con cá tra giống cung cấp nhu cầu nuôi của thành phố và các tỉnh lân cận.

Hiện tại các công ty chế biến thủy sản trên địa bàn TP Cần Thơ có khuynh hướng xây dựng vùng nuôi tập trung để ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhà máy chế biến. Ngành Nông nghiệp đang chú trọng phát triển các mô hình nuôi theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa thủy sản. Đến nay, có 02 HTX nuôi cá tra với diện tích 27 ha; 43 hộ tham gia liên kết sản xuất với các nhà máy với diện tích 144 ha; 20 vùng nuôi của 07 doanh nghiệp tham gia nuôi cá tra với diện tích 169,7 ha và tổng diện tích nuôi thủy sản ATTP theo tiêu chuẩn đạt 228,5 ha, bao gồm: 214,75 ha VietGAP (trong đó có 17 ha BMP+ASC) và 13,5 ha BAP+ASC.

III. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước ĐP quản lý

Ước thực hiện vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện tháng 8 năm 2019 được 463,58 tỷ đồng. Trong đó vốn cân đối ngân sách thành phố thực hiện được là 88,29 tỷ đồng, vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện được 29,38 tỷ đồng, vốn nước ngoài ODA 99,49 tỷ đồng, vốn xổ số kiến thiết 32,08 tỷ đồng, nguồn vốn khác thực hiện được 74,68 tỷ đồng, vốn ngân sách cấp huyện được 139,66 tỷ đồng.

Ước thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện 08 tháng năm 2019 là 2.815,23 tỷ đồng bằng 62,72% so kế hoạch năm đã điều chỉnh. Trong đó, vốn cân đối ngân sách thành phố là 657,02 tỷ đồng đạt 70,17% so kế hoạch năm. Vốn trung ương hỗ trợ theo mục tiêu thực hiện được 274,91 tỷ đồng đạt 85,55% so kế hoạch năm. Vốn nước ngoài ODA thực hiện được là 453,5 tỷ đồng đạt 56,05% so kế hoạch năm. Nguồn vốn từ xổ số kiến thiết thực hiện 216,58 tỷ đồng đạt 48,09% so với kế hoạch năm, nguồn vốn khác thực hiện được 291,06 tỷ đồng đạt 64,52% so với kế hoạch năm, vốn ngân sách cấp huyện thực hiện 922,17 tỷ đồng đạt 60,65% kế hoạch năm.

Nhìn chung, tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 08 tháng năm 2019 còn thấp so với kế hoạch năm, ngày 31 tháng 7 năm 2019, Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ ban hành Quyết định số 1842/QĐ-UBND về việc điều chỉnh và giao chi tiết kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương (vốn nước ngoài) giai đoạn 2016–2020 và năm 2019.

Những tháng cuối năm 2019, các chủ đầu tư đang nhanh chóng triển khai các gói thầu mới (các hạng mục công trình thuộc dự án lớn), điều chỉnh thiết kế một số gói thầu phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương hiện nay, cụ thể như dự án Phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị thuộc nguồn vốn ODA nhiều hạng mục công trình đã hoàn thành xong giai đoạn chuẩn bị mặt bằng và đấu thầu thi công, và điều chỉnh thiết kế gói thầu xây dựng cầu Quang Trung, Âu thuyền Cái Khế, Âu thuyền Đầu Sấu, Gói thầu 1.2 kè sông Cần Thơ; Gói thầu hồ điều hòa; thiết kế cơ sở đường Hoàng Quốc Việt.

Một số công trình, dự án mới hiện đang trong giai đoạn thỏa thuận, bồi thường và chuẩn bị mặt bằng, cụ thể là dự án Kè bờ sông Cần Thơ - Ứng phó biến đổi khí hậu, công trình đường vành đai sân bay Cần Thơ kết nối đường Lê Hồng Phong đến QL91B.

Một số công trình, dự án đã bố trí vốn kế hoạch từ đầu năm 2019, nhưng đến tháng 8 năm 2019 vẫn chưa giải ngân, cụ thể dự án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giai đoạn 1 (5,7 ha) thuộc Trường đại học Kỹ thuật – Công nghệ Cần Thơ; dự án Bồi thường, hỗ trợ và TĐC Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Cần Thơ.

Tình hình thực hiện một số dự án chủ yếu trên địa bàn Thành phố:

- Dự án phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô thị, Dự án có tổng mức đầu tư 7.339,33 tỷ đồng, được thực hiện bằng nguồn vốn ODA, do Ban quản lý ODA thành phố Cần Thơ làm chủ đầu tư. Kế hoạch vốn năm 2019 được giao 984,9 tỷ đồng (đã điều chỉnh). Dự tính thực hiện lũy kế từ đầu dự án đến cuối tháng 8/2019, thực hiện được 2.991,8 tỷ đồng, đạt 40,77% tổng mức đầu tư toàn dự án, dự tính tháng 8 năm 2019 thực hiện được 110,4 tỷ đồng.

- Dự án Kè chống sạt lở sông Ô Môn, Dự án có tổng mức đầu tư 416,74 tỷ đồng do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Cần Thơ làm chủ đầu tư. Kế hoạch vốn năm 2019 được giao là 30 tỷ đồng. Dự tính thực hiện lũy kế từ đầu dự án đến cuối tháng 8 năm 2019 là 391 tỷ đồng đạt 94% tổng mức đầu tư toàn dự án, dự tính tháng 8 năm 2019 thực hiện được 4,9 tỷ đồng.

- Dự án mở rộng đường Quang Trung Cái Cui, dự án có tổng mức đầu tư là 1.097 tỷ đồng do Sở Giao thông vận tải thành phố làm chủ đầu tư. Kế hoạch vốn năm 2019 là 100 tỷ đồng. Dự tính thực hiện lũy kế từ đầu dự án đến cuối tháng 8 năm 2019 ước thực hiện 1.082 tỷ đồng đạt 98,65% so với tổng mức đầu tư toàn dự án.

- Dự án Bệnh viện Ung Bướu, dự án có tổng mức đầu tư là 1.727,94 tỷ đồng do Sở Y tế Cần Thơ làm chủ đầu tư. Kế hoạch vốn năm 2019 là 424,63 tỷ đồng. Dự tính thực hiện lũy kế từ đầu dự án đế cuối tháng 8 năm 2019 đạt 184,98 tỷ đồng đạt 10,7% so với tổng mức đầu tư toàn dự án.

IV. THƯƠNG MẠI

1. Giá cả thị trường

Thời tiết trong tháng mưa nhiều, giá một số nguyên liệu đầu vào có xu hướng tăng trở lại, mức lương cơ sở tăng, giá dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế điều chỉnh theo thông tư 13/2019/TT-BYT là những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2019 tăng 0,17% so với tháng trước, tăng 2,04% so với tháng 12/2018, tăng 2,17% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 8 tháng đầu năm 2019, CPI tăng 1,37% so với cùng kỳ năm 2018.

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính:

+ 06 nhóm hàng có chỉ số giá tăng với mức tăng từ 0,01% đến 2,10% so với tháng trước, gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,39%, Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%, Thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,10%, Bưu chính viễn thông tăng 0,01%, Giáo dục tăng 0,01%, Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,10%.

+ 04 nhóm hàng hóa, dịch vụ giảm với mức giảm từ 0,01% đến 0,53% so với tháng trước, gồm: Đồ uống và thuốc lá giảm 0,32%, May mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,01%, Nhà ở, điện, nuớc, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,05%, Giao thông giảm 0,53%.

+ 01 nhóm hàng hóa, dịch vụ có chỉ số giá bằng 100% so tháng trước là nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch.

Diễn biến giá tiêu dùng tháng 8 của các nhóm hàng chính

Hàng ăn và dịch vụ ăn uống

Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,39% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 3,52%, so với tháng 12 năm trước tăng 2,49%.

Lương thực

Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,15% so với tháng trước. Giá nhóm lương thực tăng do tác động tăng giá của mặt hàng khoai lang, khoai mì do nguồn cung giảm vì chưa đến vụ thu hoạch.

Chỉ số giá gạo tháng 8/2019 ổn định so với tháng 7/2019. Xuất khẩu gạo gặp khó khăn do sản lượng gạo của các nước xuất khẩu gạo khác đều tăng, bên cạnh đó lượng gạo tồn kho của các doanh nghiệp từ các vụ mùa trước còn lớn. Ngoài ra, các thị trường nhập khẩu gạo truyền thống của Việt Nam như Trung Quốc, Indonesia và Bangladesh đều đồng loạt giảm nhập khẩu.

Trên địa bàn thành phố gạo tẻ thường Hàm Châu giá phổ biến 11.000đ/kg-13.000đ/kg; gạo tẻ thường Tài Nguyên giá 12.000đ/kg-14.000đ/kg, gạo tẻ ngon thơm Đài Loan giá 16.000đ/kg-17.000đ/kg, gạo tẻ ngon thơm Thái Lan giá 13.000đ/kg-16.000đ/kg, giá gạo nếp thường (nếp lá) dao động từ 14.000đ/kg-16.000đ/kg, gạo nếp ngon (nếp Thái) dao động từ 16.000đ/kg- 20.000đ/kg.

Thực phẩm

Chỉ số giá nhóm thực phẩm tăng 0,57% so với tháng trước, tăng ở các nhóm mặt hàng:

Giá thịt heo tăng 1,92%, nội tạng động vật tăng 0,69%, mỡ ăn tăng 3,98% so với tháng trước do giá heo hơi tăng lên vì nguồn cung giảm bởi dịch tả heo Châu Phi.

Nhóm thủy sản tươi sống tăng 0,17%, thủy sản chế biến tăng 0,88% so với tháng trước do thời tiết biển động, mưa nhiều, thêm vào đó do lũ về trễ nên nguồn thủy sản khai thác tự nhiên giảm, chi phí đánh bắt, khai thác, vận chuyển tăng.

Nhóm đậu hạt tăng 0,53%, rau tươi, khô và chế biến tăng 1,74%, quả tươi, chế biến tăng 0,53% so với tháng trước, nguyên nhân do ảnh hưởng thời tiết mưa nhiều, sản lượng thu hoạch giảm, vụ mùa chưa đến, nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp rằm tháng 7 âm lịch nên giá nhiều loại rau tươi, củ, quả tươi tăng cao.

Giá đường tăng 1,32% so với tháng trước do nhu cầu sử dụng đường mùa Trung Thu tăng.

Bên cạnh các mặt hàng tăng giá, nhóm thực phẩm có các mặt hàng giảm giá như:

Giá thịt gia cầm tươi sống giảm 0,81% so với tháng trước do nguồn cung dồi dào. Trên địa bàn xuất hiện cúm H5N1 trên đàn gia cầm nên giá thịt gia cầm ở một số chợ giảm.

Giá trứng gia cầm các loại giảm 0,39% do nguồn cung trứng tại các chợ tăng lên vì việc thu mua trứng để chế biến trứng vịt muối cho mùa Trung Thu giảm.

Nhóm đồ gia vị giảm 0,73% so với tháng trước do giá hồ tiêu giảm.

Ăn uống ngoài gia đình

Dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng 0,10% so với tháng trước do giá một số loại thức uống từ hoa quả ở khu vực thành thị tăng do nhu cầu tiêu dùng trong mùa hè, mùa du lịch tăng và do giá một số quả tươi tăng vì hết mùa.

Đồ uống và thuốc lá

Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,32% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 1,61%, so với tháng 12 năm trước tăng 1,52% do tác động giảm giá của mặt hàng thuốc lá.

May mặc, mũ nón, giầy dép

Chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,01% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 0,40%, so với tháng 12 năm trước tăng 0,35%. Nguyên nhân do có nhiều cửa hàng, cơ sở kinh doanh mặt hàng thời trang thực hiện các chương trình giảm giá trong mùa lễ Vu Lan làm chỉ số giá nhóm quần áo may sẵn giảm 0,17% so với tháng trước.

Trong khi đó do tác động của thời tiết nên nhu cầu sử dụng các mặt hàng găng tay, mũ nón, áo mưa tăng. Nhu cầu mua sắm cho mùa tựu trường cũng tăng lên làm giá các mặt hàng giầy dép, dây nịt, tiền công may quần áo tăng, điều này làm chỉ số giá nhóm may mặc khác và mũ nón tăng 0,40%, giầy dép tăng 0,01%, dịch vụ may mặc tăng 2,11% so với tháng trước.

Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng

Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nuớc, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,05% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 1,79%, so với tháng 12 năm trước tăng 1,04%. Chỉ số giá nhóm hàng này giảm chủ yếu ở các mặt hàng sau:

Giá dầu hỏa điều chỉnh 2 đợt vào ngày 01/8/2019 và ngày 16/8/2019, sau 2 lần điều chỉnh giá dầu hỏa giảm 560 đồng/lít, bình quân chung chỉ số giá dầu hỏa tháng này giảm 1,47% so với tháng trước.

Thời tiết mưa nhiều nên nhu cầu sử dụng điện trong tháng giảm so với tháng trước, chỉ số giá điện sinh hoạt giảm 0,56%.

Bên cạnh các mặt hàng giảm giá thì nhóm vật liệu, bảo dưỡng nhà ở tăng 0,14% so với tháng trước, tăng chủ yếu ở mặt hàng xi măng và sắt thép do chi phí đầu vào cho sản xuất tăng.

Thiết bị và đồ dùng gia đình

Chỉ số giá nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 2,77%, so với tháng 12 năm trước tăng 2,68%. Chỉ số nhóm này tăng chủ yếu ở nhóm đồ dùng trong nhà tăng 0,13% so với tháng trước. Trong đó, đồng hồ treo tường và để bàn tăng 0,84%, đồ dùng bằng nhựa tăng 0,51%, bát đĩa sành, sứ tăng 1,49%, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,15%, chổi tăng 0,68%. Nguyên nhân do chi phí nguyên liệu đầu vào, chi phí nhân công có xu hướng tăng lên.

Thuốc và dịch vụ y tế

Thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,10% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 7,22%, so với tháng 12 năm trước tăng 2,23%.

Thời tiết thay đổi thất thường là môi trường thuận lợi cho nhiều loại bệnh phát triển, nhất là các bệnh về đường hô hấp ở trẻ em, bệnh sốt xuất huyết tại một số quận, huyện đang có chiều hướng tăng lên so với năm trước làm giá một số loại thuốc tăng nhẹ.

Giá dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được điều chỉnh từ ngày 20/8/2019 theo Thông tư số 13/2019/TT-BYT ngày 05/7/2019, theo đó chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế tăng 2,67% so với tháng trước.

Giao thông

Chỉ số giá nhóm Giao thông giảm 0,53% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 0,69%, so với tháng 12 năm trước tăng 4,93%. Chỉ số nhóm này giảm chủ yếu do các mặt hàng:

Nhóm phương tiện đi lại giảm 0,02% so với tháng trước do giá một số mặt hàng xe máy khuyến mãi giảm giá.

Giá nhóm nhiên liệu giảm 0,91% so với tháng trước do việc điều chỉnh giá xăng, dầu vào ngày 01/8/2019 và ngày 16/8/2019 làm giá xăng dầu bình quân trong tháng giảm 1% so với tháng trước. Hiện giá xăng giá xăng A95 III là 20.400 đồng/lít, xăng E5 là 19.350 đồng/lít, Diesel 0,05S-II là 16.500 đồng/lít.

Bên cạnh đó, chỉ số giá nhóm bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,33% so với tháng trước do chi phí nhân công tăng.

Bưu chính viễn thông

Chỉ số nhóm Bưu chính viễn thông tăng 0,01% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 0,18%, so với tháng 12 năm trước giảm 0,12%. Nguyên nhân do chi phí nhân công tăng làm giá dịch vụ sửa chữa điện thoại tăng 1,64%.

Giáo dục

Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 0,01% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 10,41%, so với tháng 12 năm trước tăng 1,13%. Chỉ số giá nhóm này tăng do tác động của nhóm đồ dùng học tập và văn phòng tăng 0,03%. Nguyên nhân do nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập cho năm học mới tăng trong tháng, chi phí nguyên liệu, sản xuất đang có xu hướng tăng.

Văn hóa, giải trí và du lịch

Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch ổn định so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 2,36%, so với tháng 12 năm trước tăng 1,26%. Mặt hàng tăng trong tháng là hoa tươi tăng 0,27% do nhu cầu tiêu dùng tăng, trong khi nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,07% do mặt hàng tivi giảm giá vì các chương trình khuyến mãi của các cửa hàng điện máy.

Hàng hóa và dịch vụ khác

Chỉ số nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,10% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 2,52%, so với tháng 12 năm trước tăng 2,09%. Chỉ số nhóm này tăng do tác động của nhóm hàng đồ dùng cá nhân tăng 0,31%. Nguyên nhân do giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,20% vì chi phí sản xuất tăng, giá vàng tăng mạnh kéo theo giá đồ trang sức bằng vàng tăng 3,01%.

Chỉ số giá vàng

Chỉ số giá vàng tháng 8/2019 tăng 4,72% so với tháng trước, tăng 15,72% so với tháng cùng kỳ năm trước và tăng 14,71% so với tháng 12 năm trước. Nguyên nhân do giá vàng thế giới tăng mạnh vượt ngưỡng 1.500 USD/ounce, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc là nguyên nhân chính đẩy giá vàng thế giới tăng cao.

Giá vàng nhẫn 99,99 ngày 21/8/2019 trên địa bàn thành phố dao động quanh mức 4.160.000đ/chỉ.

Chỉ số giá đô la Mỹ

Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,15% so với tháng trước, giảm 0,12% so với tháng cùng kỳ năm trước, giảm 0,37% so với tháng 12 năm trước.

Giá đô la Mỹ ngày 21/8/2019 trên địa bàn thành phố dao động quanh mức 23.260 đồng/USD.

2. Nội thương

Tình hình kinh doanh của các Doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh cá thể trên địa bàn thành phố Cần Thơ 8 tháng đầu năm tiếp tục tăng trưởng tương đối ổn định.

Ước tháng 8/2019, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ đạt 11.121,96 tỷ đồng tăng 13,01% so cùng kỳ, trong đó thành phần kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 6.540,97 tỷ đồng tăng 13,42% so cùng kỳ, thành phần kinh tế cá thể đạt 3.272,93 tỷ đồng tăng 13,76% so cùng kỳ, thành phần kinh tế Nhà nước đạt 1.092,05 tỷ đồng tăng 9,10% so cùng kỳ.

Phân theo ngành kinh tế thì ngành Thương nghiệp chiếm 81,96% trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 8/2019 đạt 9.115,17 tỷ đồng tăng 13,09% so cùng kỳ. Khách sạn nhà hàng ước đạt 862,9 tỷ đồng tăng 15,88% so cùng kỳ. Du lịch lữ hành ước đạt 22,37 tỷ đồng tăng 10,65% so cùng kỳ. Dịch vụ ước đạt 1.121,53 tỷ đồng tăng 10,32% so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn Thành phố ước tính 8 tháng năm 2019 đạt 88.975,68 tỷ đồng tăng 13,15% so cùng kỳ, trong đó thành phần kinh tế tư nhân ước đạt 52.327,78 tỷ đồng tăng 13,35% so cùng kỳ, thành phần kinh tế cá thể ước đạt 26.183,46 tỷ đồng tăng 14,32% so cùng kỳ, thành phần kinh tế Nhà nước ước đạt 8.736,43 tỷ đồng tăng 9,31% so cùng kỳ.

Phân theo ngành kinh tế thì ngành Thương nghiệp chiếm 81,96% trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 8 tháng năm 2019, ước đạt 72.921,33 tỷ đồng tăng 13,16% so cùng kỳ; Khách sạn nhà hàng ước đạt 6.903,19 tỷ đồng tăng 15,91% so cùng kỳ. Du lịch lữ hành ước đạt 178,95 tỷ đồng tăng 10,86% so cùng kỳ. Dịch vụ ước đạt 8.972,23 tỷ đồng tăng 11,15% so với cùng kỳ.

V. NGÀNH TÀI CHÍNH - TÍN DỤNG

1. Tài chính ngân sách

Thu ngân sách

Thực hiện đến 20 ngày tháng 8/2019, tổng thu NSNN 8.869,09 tỷ đồng đạt 59,22% dự toán, trong đó thu nội địa là 6.987,23 tỷ đồng với các nguồn thu chủ lực như thu thuế khu vực công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh 1.697,24 tỷ đồng đạt 80,32% dự toán, thu từ doanh nghiệp nhà nước 1.062,08 tỷ đồng đạt 66,17% so dự toán, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 709,53 tỷ đồng đạt 57,69% so dự toán, thuế thu nhập cá nhân 609,82 tỷ đồng đạt 69,3% so dự toán. Tính đến 20/8/2019 hoạt động thu thuế hải quan ước đạt 388,53 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 4,38% trong tổng thu ngân sách nhà nước và đạt 38,85% so dự toán.

Chi ngân sách

Ước đến 20 ngày tháng 8/2019 ngân sách đã chi 6.497,75 tỷ đồng chiếm 53,9% dự toán, bao gồm hoạt động chi đầu tư phát triển 3.087,7 tỷ đồng, chi thường xuyên 3.342,34 tỷ đồng.

2. Tín dụng ngân hàng:

Vốn huy động đến cuối tháng 8 năm 2019 ước đạt 76.900 tỷ đồng, tăng 0,81% so với đầu tháng, tăng 6,07% so với tháng 12/2018.

Tổng dư nợ cho vay đến cuối tháng 8 năm 2019 ước đạt 85.200 tỷ đồng, tăng 0,97% so với đầu tháng, tăng 9,76% so với tháng 12/2018, trong đó dư nợ cho vay VNĐ đạt 80.300 tỷ đồng, tăng 0,97%, chiếm 94,25%, dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 4.900 tỷ đồng, tăng 0,89% so với đầu tháng, chiếm 5,75% trong tổng dư nợ cho vay; Phân theo thời hạn dư nợ cho vay ngắn hạn là 46.300 tỷ đồng, tăng 0,91%, chiếm 54,34%, dư nợ cho vay trung dài hạn 38.900 tỷ đồng, tăng 1,03% so đầu tháng, chiếm 45,66% tổng dư nợ cho vay.a

Nợ xấu đến cuối tháng 8 năm 2019 ước là 1.600 tỷ đồng, chiếm 1,88% trong tổng dư nợ cho vay.

Lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn chấp hành đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất trên địa bàn phổ biến như sau:

- Lãi suất huy động VNĐ: Lãi suất huy động không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng phổ biến mức 0,2 - 1,0%/năm; lãi suất huy động có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng mức 5,0% - 5,5%/năm; lãi suất huy động từ 6 đến 12 tháng phổ biến 5,5% - 6,8%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng phổ biến ở mức 6,8% - 7,4%/năm tùy theo từng loại kỳ hạn. 

- Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên tối đa 6,5%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường phổ biến từ 7,0% - 8,0%/năm đối với ngắn hạn, 8,0% - 11%/năm đối với trung, dài hạn.

- Lãi suất USD: Lãi suất huy động thực hiện theo quy định là 0%/năm. Lãi suất cho vay phổ biến ngắn hạn 4,0% - 5,0%/năm, trung dài hạn 5,0% - 6,5%/năm.

VI. TÌNH HÌNH VĂN HOÁ - XÃ HỘI   

1. Văn hóa – Thể thao

Nghệ thuật:

Trung tâm Văn hóa thành phố: Tham gia Hội thi Múa không chuyên toàn quốc năm 2019 chủ đề “Biển đảo trái tim Việt Nam”, tại tỉnh Ninh Thuận, từ ngày 04/8 - 09/8/2019, kết quả đạt 01 HCV giải chương trình, 01 HCV giải tiết mục “Tình quê mùa nước nổi”, 02 HCB giải tiết mục “Trái tim của biển” và “Vui múa cùng chim công”.

Nhà hát Tây Đô: Tổ chức biểu diễn 07 suất, thu hút 3.500 lượt người xem.

Tổ chức 14 chương trình biểu diễn nghệ thuật định kỳ tại bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng và Sân chơi tài tử Cầu đi bộ, thu hút từ 300 - 500 lượt người xem/chương trình.

Công tác bảo tàng, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc: Tổ chức phục vụ 27.786 lượt khách tham quan tại Bảo tàng thành phố Cần Thơ, Trạm vệ tinh ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam tại Cần Thơ và các di tích LS-VH trên địa bàn thành phố. Thực hiện 69 hồ sơ khoa học của 91 hiện vật. Tổ chức tổng kết công tác giáo dục di sản văn hóa trong học đường 2018 - 2019 và kế hoạch năm học 2019 - 2020. Xuất bản 1.000 ấn phẩm di sản văn hóa phi vật thể ở Cần Thơ. Hoàn thành hồ sơ đề nghị xếp hạng Di tích lịch sử Mộ Soạn giả Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền.

Công tác thư viện: Hệ thống thư viện toàn thành phố phục vụ: 250.000 lượt người đọc và 500.000 lượt sách báo. Bổ sung sách Thư viện Thành phố: 2.000 bản sách.

Thể dục, thể thao quần chúng

Tham dự Đại hội Liên đoàn Lân Sư Rồng thành phố Cần Thơ nhiệm kỳ 2018 – 2023, vào ngày 28/7/2019. Hướng dẫn thủ tục thành lập Liên đoàn Thể thao dưới nước thành phố Cần Thơ nhiệm kỳ 2019 - 2023.

Thể thao thành tích cao

Tổ chức Giải Vô địch Boxing trẻ toàn quốc năm 2019, tại Nhà thi đấu Trường Đại học Cần Thơ, có sự tham gia 339 võ sĩ (154 võ sĩ nữ) thuộc 37 đoàn của 36 tỉnh, thành và ngành, thu hút 7.000 lượt người xem.

Tổ chức Giải Xe đạp đồng bằng sông Cửu Long, tranh Cúp Hạt Ngọc Trời năm 2019 tại các tỉnh ĐBSCL.

Tham dự Giải Cờ vua quốc tế mở rộng tại Hồ Nam, Trung quốc, VĐV Phạm Lê Thảo Nguyên đạt hạng 2 cá nhân; Giải Vô địch cờ vua Trẻ xuất sắc toàn quốc 2019, tại TP Hải Phòng, đoàn Cần Thơ đạt 01 HCĐ; Giải Vô địch Điền kinh trẻ tại tỉnh Đồng Nai, đạt 01 HCV - 04 HCB - 02 HCĐ.

2. Giáo dục

Công tác bồi dưỡng chuyên môn: Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên các cấp học, bậc học. Cụ thể: Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho cán bộ cốt cán các bậc học; Bồi dưỡng thường xuyên trong hè.

Công tác chuẩn bị các điều kiện cho năm học 2019 – 2020:

Để chuẩn bị cho năm học mới, ngành GD&ĐT đã tiến hành xây mới, nâng cấp sửa chữa các phòng học, phòng chức năng với tổng kinh phí khoảng 362 tỷ đồng.

Hoàn thành các dự án kịp thời đưa vào sử dụng nhân dịp khai giảng năm học 2019 - 2020, gồm: Trường THPT chuyên Lý Tự Trọng (khu ký túc xá học sinh); Trường THPT Bình Thủy (khối nhà hiệu bộ và khối phòng học bộ môn); Trường THPT Trung An (10 phòng học và khu nhà ở công vụ giáo viên); Trường THCS và THPT Thạnh Thắng (khu hiệu bộ và các phòng chức năng, khu phòng học và các phòng bộ môn). Nâng cấp sửa chữa, duy tu bảo dưỡng cho 11 trường trung học phổ thông. Triển khai kế hoạch mua sắm sách và trang thiết bị phục vụ công tác dạy học, quản lý năm học 2019 - 2020.

3. Về Y tế - khám chữa bệnh

Tình hình dịch bệnh ổn định, không có vụ dịch nguy hiểm xảy ra. Tuy nhiên trong tháng một số bệnh như: Sốt xuất huyết ghi nhận 285 trường hợp mắc, tăng 172 trường hợp so với tháng trước (113 trường hợp); Lũy tích từ đầu năm đến nay 767 trường hợp mắc, tăng 265 trường hợp so cùng kỳ (502 trường hợp), không có tử vong. Tay chân miệng ghi nhận 146 trường hợp mắc, tăng 77 trường hợp so với tháng trước (69 trường hợp); Lũy tích từ đầu năm đến nay ghi nhận 569 trường hợp mắc, tăng 273 trường hợp so cùng kỳ (296 trường hợp), không có tử vong. Sởi và sốt phát ban nghi sởi ghi nhận 26 trường hợp mắc, giảm 21 trường hợp so với tháng trước (47 trường hợp); Lũy tích từ đầu năm đến nay ghi nhận 366 trường hợp mắc, không có tử vong. Thủy đậu ghi nhận 01 trường hợp mắc, giảm 01 trường hợp so với tháng trước (02 trường hợp); Lũy tích từ đầu năm đến nay 23 trường hợp mắc, giảm 4 trường hợp so với cùng kỳ 2018 (27 trường hợp). Tiêu chảy 565 trường hợp, giảm 7,38% so với tháng trước.

Hoạt động Y tế dự phòng: Tăng cường các biện pháp phòng, chống bệnh sốt xuất huyết trên địa bàn theo chỉ đạo của Bộ Y tế tại Công văn số 505/DP-DT ngày 05 tháng 7 năm 2019 của Cục Y tế dự phòng về việc tăng cường công tác phòng, chống bệnh sốt xuất huyết và Công văn số 723/KCB-NV ngày 09 tháng 7 năm 2019 của Cục Quản lý Khám, chữa bệnh về việc tăng cường công tác điều trị sốt xuất huyết Dengue nhằm chủ động phòng, chống không để dịch bệnh sốt xuất huyết bùng phát trong thời gian tới, không để xảy ra tử vong.

Công tác phòng, chống HIV/AIDS: Lũy tích số nhiễm HIV phát hiện được 6.301 trường hợp; trong đó, tử vong 2.489 trường hợp, số nhiễm HIV còn sống 3.812 trường hợp. Duy trì điều trị ARV cho 3.101 trường hợp. Duy trì điều trị Methadone cho 375 bệnh nhân, lũy tích đến nay đạt 1.244 bệnh nhân.

Tăng cường công tác phối hợp HIV/Lao và báo cáo công tác phối hợp HIV/Lao theo Công văn số 576/AIDS-ĐT ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Cục Phòng, chống HIV/AIDS.

Công tác khám chữa bệnh: Các cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc thực hiện tốt quy chế chuyên môn, đảm bảo các quy trình kỹ thuật trong khám chữa bệnh đồng thời tăng cường công tác khám chữa bệnh và quản lý quỹ BHYT.

4. Chính sách lao động - xã hội

Trong tháng, toàn thành phố giải quyết việc làm cho 14.012 lao động. Lũy kế đến nay đã giải quyết việc làm cho 65.202 lao động, đạt 127,09 % kế hoạch đề ra (vượt kế hoạch đề ra).   

Đến nay trên địa bàn thành phố có 90 cơ sở GDNN, trong đó: 10 trường Cao đẳng, 14 trường Trung cấp, 22 Trung tâm và 44 cơ sở khác có dạy nghề. Các cơ sở GDNN tuyển mới và đào tạo nghề cho 5.762 người. Lũy kế tuyển mới và đào tạo nghề cho 31.871 người, đạt 66,4% so với kế hoạch năm 2019. Tổ chức khai giảng 109 lớp đào tạo nghề cho LĐNT năm 2019 đạt 91,6% kế hoạch năm, với 3.410 học viên. Cấp giấy phép lao động cho 09 người lao động nước ngoài; Miễn cấp giấy phép lao động cho 09 người lao động nước ngoài. Tiếp nhận và thẩm định cấp Giấy xác nhận khai báo sử dụng máy thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động tại 02 doanh nghiệp với tổng số 43 thiết bị; Tiếp nhận Nội quy lao động của 01 đơn vị.

Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố tư vấn nghề nghiệp, việc làm, quan hệ lao động cho 14.611 lượt người, lũy kế từ đầu năm 2019 là 71.076 lượt người, đạt 52,65% kế hoạch năm; Kết nối việc làm trong nước cho 1.090 lượt người, lũy kế từ đầu năm 2019 là 7.078 lượt người, đạt 64,35% kế hoạch năm. Đào tạo nghề và kỹ năng lao động cho 580 lượt người, lũy kế từ đầu năm 2019 là 4.536 lượt người, đạt 70,87% kế hoạch năm. Cung ứng lao động và đăng ký hợp đồng lao động cá nhân đi làm việc ở nước ngoài 26 người, lũy kế từ đầu năm 2019 là 145 người, đạt 51,79% kế hoạch năm.

Tiếp nhận 137 lượt doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động chấp hành quy định thông báo biến động lao động hàng tháng theo quy định. Hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp trong tháng 1.060 hồ sơ, giảm 16,7% so với tháng trước (1.272 hồ sơ) và tăng 4,33% so với cùng kỳ báo cáo năm 2018 (1.016 hồ sơ). Trong đó, Nữ 567 người chiếm 53,49% số người đề nghị. Tổ chức Hội nghị Tuyển dụng học sinh, sinh viên năm 2019 có 668 người dự; Tổ chức 02 Điểm Tư vấn tuyển dụng lao động có 44 người lao động dự và các hoạt động khác.

Chính sách người có công với cách mạng: Toàn thành phố hiện có 6.535 người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp ưu đãi thường xuyên, tổng kinh phí hơn 10 tỷ đồng (49 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng và được các đơn vị nhận phụng dưỡng). Tiếp nhận, xét duyệt và giải quyết 104 hồ sơ chế độ chính sách.

Tổ chức đưa 06 người có công với cách mạng tiêu biểu của thành phố Cần Thơ đi dự Hội nghị biểu dương người có công với cách mạng tiêu biểu toàn quốc năm 2019 tại Thủ đô Hà Nội. Tặng quà cho 9.125 đối tượng ưu đãi người có công với cách mạng, tổng kinh phí: 7.369 triệu đồng (Địa phương 5.495 triệu đồng; Trung ương 1.873 triệu đồng). Phối hợp quận, huyện tổ chức 09 đoàn thăm hỏi, động viên 720 gia đình là Thương bệnh, Bệnh binh và gia đình thân nhân liệt sĩ... tổng kinh phí 360 triệu đồng; Ngoài ra, vận động các Doanh nghiệp, nhà hảo tâm, mạnh thường quân thăm tặng 3.280 phần quà cho gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng, tổng kinh phí 732 triệu đồng. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và dâng hương, thắp nến tri ân các nghĩa trang và đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ thành phố Cần Thơ nhân kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019) và trao học bổng cho 20 em là con, cháu gia đình Thương binh, gia đình Chính sách, gia đình Người có công với cách mạng với tổng kinh phí 40 triệu đồng tiền mặt và 20 nón bảo hiểm.

Lĩnh vực Xã hội - Bảo trợ xã hội

Trợ cấp thường xuyên cho 38.252 đối tượng bảo trợ xã hội ngoài cộng đồng, tổng kinh phí 12,617 tỷ đồng; Mua bảo hiểm y tế cho 33.541 đối tượng tổng kinh phí 2,098 tỷ đồng; Chi trả mai táng phí cho 265 đối tượng bảo trợ xã hội, tổng kinh phí 1,420 tỷ đồng. Tổ chức rà soát hộ nghèo thuộc diện Người có công cách mạng tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố Cần Thơ.

Trung tâm Bảo trợ xã hội đang quản lý 583 đối tượng. Hướng dẫn, tư vấn thân nhân, gia đình có nhu cầu bảo lãnh người thân về gia đình tiếp tục quản lý và điều trị 08 lượt người. Ngăn chặn 08 đối tượng lên cơn kích động, giáo dục 02 trường hợp đối tượng vi phạm nội quy.

Đảm bảo việc cung cấp lương thực, thực phẩm và tổ chức nấu ăn hàng ngày cho đối tượng đủ chất dinh dưỡng, hợp vệ sinh. Duy trì vệ sinh cá nhân hằng ngày 30.050 lượt đối tượng. Chăm sóc đi nuôi bệnh 07 đối tượng nằm viện (nuôi viện 41 lượt). Đặc biệt tăng khẩu phần ăn cho 43 đối tượng lão, nhi, đối tượng có sức khỏe yếu.

Trung tâm Công tác xã hội đang nuôi dưỡng trực tiếp 84 (tăng 03 đối tượng so tháng trước). Tiếp nhận 23 cuộc gọi đến Tổng đài tư vấn miễn phí 18008065 liên quan đến các vấn đề về xin con nuôi trong nước, dịch vụ nuôi dưỡng tập trung đối tượng tâm thần, hỗ trợ bệnh nhân nghèo, trẻ em bị khuyết tật cần nuôi dưỡng tập trung. Phối hợp Ban Chủ nhiệm các Câu lạc bộ Tuổi Hồng Thới An Đông và Thị trấn Vĩnh Thạnh triển khai sinh hoạt định kỳ với 60 hội viên tham dự. Tổ chức cho 21 trẻ đang nuôi dưỡng tại Trung tâm đi tham quan, dã ngoại tại Khu du lịch Đại Nam, Bình Dương; 14 trẻ em tham gia hoạt động vui chơi, giải trí do Công ty AT HUB tổ chức tại Trung tâm; 16 trẻ tham gia sự kiện Google I/0 Extended 19 Mê Kong tổ chức tại Trường Đại học FPT Cần Thơ. Tiếp tục duy trì tập vật lý trị liệu cho 28 đối tượng tại Trung tâm.

5. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông thành phố Cần Thơ tình hình tai nạn giao thông (từ ngày 16/7/2019 đến 15/8/2019) trên địa bàn thành phố đã xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 05 người, bị thương 02 người. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ giảm 03 vụ, số người chết giảm 03 người, số người bị thương giảm 04 người. Trong 8 tháng năm 2019, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 64 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 68 người, bị thương 19 người. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ giảm 03 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương giảm 05 người.

Nguồn: Cục Thống kê TP. Cần Thơ

TIN TỨC MỚI NHẤT

Vui lòng để lại email, Viện sẽ gởi các bài viết mới nhất đến bạn ngay khi bài viết được đăng tải.

Video